Thứ Ba, 4 tháng 10, 2016

Các trường phải báo cáo tình hình việc làm của sinh viên tốt nghiệp

Mục đích nhằm cung cấp, cập nhật thông tin về tình trạng việc làm của sinh viên tốt nghiệp và khả năng tham gia vào thị trường lao động của sinh viên. Trên cơ sở đó, các trường nghiên cứu, xem xét, điều chỉnh chỉ tiêu tuyển sinh, cơ cấu ngành đào tạo; điều chỉnh, bổ sung, cập nhật nội dung chương trình giảng dạy nhằm nâng cao tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm.

Nội dung báo cáo gồm: Tình trạng việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp; khu vực làm việc của sinh viên tốt nghiệp; đánh giá mối quan hệ giữa kết quả đào tạo và tình trạng việc làm của sinh viên tốt nghiệp.

Theo đó, Bộ yêu cầu các trường phải báo cáo phải phản ánh khách quan, trung thực tình hình việc làm của sinh viên tốt nghiệp; nêu rõ phương pháp, quy trình điều tra việc làm của sinh viên tốt nghiệp và minh chứng về việc thực hiện để phục vụ công tác kiểm tra, xác thực thông tin của báo cáo;

Bộ GD&ĐT, báo cáo là yêu cầu bắt buộc, làm cơ sở để giám sát chỉ tiêu tuyển sinh hằng năm của các trường và phải được đăng tải công khai trên trang thông tin điện tử của trường.

Từ năm 2016, Giám đốc các ĐH, học viện; Hiệu trưởng các trường ĐH, CĐ sư phạm triển khai việc thu thập thông tin, xây dựng và công bố báo cáo về việc làm của sinh viên chính quy, tốt nghiệp bằng thứ nhất (tính từ sinh viên tốt nghiệp năm 2015) trên trang thông tin điện tử của trường, đồng thời gửi báo cáo về Bộ GD&ĐT, trước ngày 1/1 hằng năm (bắt đầu từ ngày 1/1/2017).

Đọc tiếp »

Phó Thủ tướng: “Đổi mới đại học khó khăn hơn đổi mới doanh nghiệp”

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam trong hội nghị về tự chủ đại học sáng nay 30/9. Ảnh: ĐHPhó Thủ tướng Vũ Đức Đam trong hội nghị về tự chủ đại học sáng nay 30/9. Ảnh: ĐH

Sáng nay (30/9), Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam đã tổ chức hội thảo “Tự chủ đại học và trách nhiệm xã hội” với sự tham dự của hàng trăm trường đại học trên cả nước.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng, có rất nhiều chỉ số để nói rằng giáo dục đại học “có vấn đề”. Ví dụ số lượng cử nhân, thạc sĩ ra trường không có việc làm, điều này còn tùy thuộc vào tình hình kinh tế xã hội, nhưng rõ ràng cũng có vấn đề về chất lượng đào tạo.

"Có nhiều nhà kinh tế nói với tôi rằng nếu ta có nhiều thật nhiều cử nhân ra cử nhân, thạc sĩ ra thạc sĩ, tiến sĩ ra tiến sĩ thì đó là nguồn lực thu hút mạnh mẽ hơn”, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho biết thêm.

Một trong những "vấn đề" của giáo dục đại học Việt Nam, theo Phó Thủ tướng là công bố quốc tế Việt Nam rất thấp. Cụ thể, trong số khoảng 10.000 tạp chí ISI thì Việt Nam không có cái nào; trong số khoảng 20.000 tạp chí Scorpus thì Việt Nam có 3 cái. Tuy nhiên, không có tạp chí của trường đại học cả mà toàn của các viện nghiên cứu.

Cũng theo Phó Thủ Tướng, vấn đề tự chủ đại học ở Việt Nam đã được đặt ra từ lâu và cũng đã thí điểm cách đây 10 năm áp dụng đối với Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, rất đáng tiếc là sau đó vấn đề này lại không được thúc đẩy thêm, không đạt được những mong muốn đề ra.

Hãy bỏ nỗi sợ nếu tự chủ

Nguyên nhân chính dẫn tới vấn đề tự chủ chậm tiến triển, theo Phó Thủ tướng là do hầu hết đều hiểu lệch theo hướng tài chính, lo lắng rằng nhà nước sẽ không cấp tiền nữa thì không có tiền chi thường xuyên.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cũng nêu ra ba vấn đề đáng chú ý về tự chủ gồm: Tự chủ chuyên môn, dạy học và nghiên cứu liên quan đến quản lý nhà nước; tự chủ bộ máy tổ chức, nhân sự và về tự chủ tài chính.

“Ở những quốc gia như Đức, Pháp có tự chủ đại học có thậm chí rất nhiều nhưng nhà nước vẫn cấp kinh phí. Có nghĩa là tự chủ không có nghĩa là Nhà nước không cấp kinh phí nữa”- Phó Thủ tướng nhận định.

Phó Thủ tướng chia sẻ, hãy hình dung 14 trường tự chủ hiện nay, nếu nhìn tinh sẽ thấy các trường được lợi vì được nhiều quyền mà vẫn được Nhà nước đầu tư: “Hãy bỏ ý nghĩ trong đầu nỗi sợ là nếu tự chủ thì không được nhà nước đầu tư nữa. Tôi khẳng định tự chủ không phải là Nhà nước không đầu tư chỉ có điều thay đổi cách đầu tư”.

Phó Thủ tướng cũng cho biết, Chính phủ đang soạn Dự thảo Nghị định theo hướng về cơ bản các trường đại học tự chủ tạo toàn quyền nhưng thay đổi mô hình quản trị, cơ quan chủ quản giảm sự can thiệp hành chính bằng việc đầu tiên là bổ nhiệm hội đồng trường lâm thời (6 tháng,1 năm).

"Đổi mới đại học còn khó khăn hơn đổi mới doanh nghiệp bởi nó liên quan đến con người cho nên trong thời gian tới chúng ta cần có trách nhiệm hơn, quyết tâm cao hơn”- Phó Thủ tướng chia sẻ.

Nhiều cơ sở giáo dục “ngại” tự chủ

Phó Thủ tướng chia sẻ, trong 14 trường đã tự chủ thì không phải trường nào cũng xin tự chủ mà chính Phó Thủ tướng phải đích thân đến gặp mặt, nói chuyện nhiều lần để bớt e ngại, lo lắng.

Theo PGS.TS Trần Quốc Toản, Hội đồng lý luận trung ương cho rằng, tự chủ đại học song phải có mô hình và bước đi phù hợp.

PGS Toản cho rằng điều quan trọng đầu tiên là về mặt nhận thức cần khắc phục cả hai cách hiểu sai lệch về cơ chế tự chủ của các cơ sở giáo dục nói chung và của giáo dục đại học nói riêng.

Đó là quá nhấn mạnh một chiều đến “quyền” tự quyết định của các cơ sở giáo dục đại học mà không tính đến các điều kiện, trình độ , yêu cầu- trách nhiệm thực tế và khách quan bị chế định và tương tác với các chủ thể khác trong xã hội. Mặt khác, lại có khuynh hướng vẫn muốn “quản chặt” từ phía cơ quan quản lý nhà nước với nhiều lý do khác nhau. Đồng thời cũng có những cơ sở giáo dục “ngại” phải thực hiện cơ chế tự chủ vì không dám chịu trách nhiệm và vẫn muốn được bao cấp và bảo trợ theo cơ chế cũ.

Thậm chí, theo PGS Toản, còn có tư duy muốn được bao cấp kinh phí “đầu vào” nhiều hơn, nhưng được “tự chủ và quyền hạn” chi “đầu ra” cùng với quyền tự quyết định các hoạt động cao hơn.

Đọc tiếp »

Trường đầu tiên thuộc Đại học Huế thực hiện đánh giá ngoài

Đại học Nông lâm là trường thành viên đầu tiên thuộc Đại học Huế tổ chức khảo sát đánh giá ngoài. Đại học Nông lâm là trường thành viên đầu tiên thuộc Đại học Huế tổ chức khảo sát đánh giá ngoài.

Đợt khảo sát đánh giá ngoài về chất lượng giáo dục tại Đại học Nông lâm Huế diễn ra từ ngày 30/9 đến 4/10. Theo TS Nguyễn Văn Đức, Phó Trưởng phòng Khảo thí và Đảm bảo chất lượng Giáo dục - Đại học Nông lâm Huế, đánh giá và kiểm định chất lượng lần này giúp nhà trường xây dựng văn hóa chất lượng bên trong; đồng thời, rà soát xem xét, đánh giá thực trạng để nhận biết điểm mạnh, điểm tồn tại. Qua đó, thể hiện tính tự chủ và tính tự chịu trách nhiệm trong toàn bộ hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, dịch vụ xã hội.

Được biết, trong thời gian tổ chức khảo sát đánh giá chất lượng, đoàn công tác đến từ Đại học Quốc gia Hà Nội sẽ tiến hành nghiên cứu hồ sơ minh chứng, làm việc trực tiếp với cán bộ phụ trách các mảng trong trường Đại học Nông lâm Huế; thảo luận, phỏng vấn nhóm lãnh đạo, nhóm giảng viên, nhóm quản lý chuyên môn, các nhóm nghiên cứu sinh, nhóm sinh viên, cựu sinh viên; thăm, quan sát các phòng ban, cơ sở vật chất của trường. Kết thúc đợt khảo sát đánh giá, Trung tâm Kiểm định Chất lượng Giáo dục Đại học Quốc gia Hà Nội sẽ có báo cáo kết quả chính thức.

Từ đợt khảo sát đánh giá ngoài này, Đại học Nông lâm Huế đặt ra mục tiêu phát triển đến năm 2020: Ổn định quy mô đào tạo là 10.000 người học (sau đại học chiếm ít nhất là 30%), có ít nhất 3 chương trình đào tạo chất lượng cao; bảo đảm trên 50% cán bộ giảng dạy có trình độ tiến sĩ; 100% cán bộ quản lý và cán bộ phục vụ được đào tạo chuẩn hóa chuyên môn, nghiệp vụ; 100% giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học; 100% các khoa có chương trình hợp tác quốc tế; 40% giảng viên có tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế...

Theo PGS-TS Nguyễn Văn Toàn, Giám đốc Đại học Huế, sau Đại học Nông lâm, vào cuối năm nay, các trường thành viên khác thuộc Đại học Huế cũng sẽ tiến hành khảo sát đánh giá ngoài, bảo đảm đến tháng 5/2017, Đại học Huế có tất cả 8/8 trường thành viên hoàn thành hoạt động đánh giá ngoài.

Đọc tiếp »

Các trường hãy bỏ nỗi sợ trong đầu

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam khẳng định: Tự chủ không có nghĩa là nhà nước không tiếp tục đầu tư. Vấn đề là thay đổi cách đầu tư mà thôi. Ảnh: Ngọc ChâuPhó Thủ tướng Vũ Đức Đam khẳng định: Tự chủ không có nghĩa là nhà nước không tiếp tục đầu tư. Vấn đề là thay đổi cách đầu tư mà thôi. Ảnh: Ngọc Châu

Hội thảo do Hội đồng quốc gia giáo dục và Phát triển nhân lực, Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam tổ chức ngày 30/9 tại Hà Nội.

Tự chủ nhưng nhà nước vẫn đầu tư

Sau khi Nghị quyết 77 của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục Đại học (ĐH) công lập giai đoạn 2014-2017 được ban hành, đến nay, có 14 trường ĐH được giao thí điểm tự chủ. Tuy nhiên, nhắc đến tự chủ, các trường đều nghĩ đến tự chủ tài chính, tức là sẽ bị “cắt” toàn bộ ngân sách nhà nước cấp. GS.Trần Hồng Quân, Chủ tịch Hiệp hội các trường ĐH, CĐ cho rằng chưa nhân rộng được mô hình tự chủ vì các trường còn dè dặt. Với chủ trương tự chủ, thái độ các trường khác nhau. Có 14 trường tự nguyện và đã được tự chủ. Nhưng vẫn có những trường còn lo lắng.

Phát biểu tại hội nghị, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam cho hay: “Vừa qua, không phải tất cả 14 trường ĐH tự nguyện xin tự chủ. Nhiều trường chúng tôi gặp và thuyết phục nhiều lần. Sau đó, các trường thấy việc đăng ký tự chủ không chỉ đóng góp mà còn giúp phá bỏ rào cản, để ĐH Việt Nam không sợ tự chủ”. Theo Phó thủ tướng, giao quyền tự chủ cho các trường ĐH hiện nay của Việt Nam đang có một số vướng mắc. Thứ nhất các trường có quyền quy định học phí ở mức cao hơn nhưng vẫn có mức trần. Vấn đề đặt ra, khi tăng thì ảnh hưởng cơ hội tiếp cận giáo dục ĐH của con em nông dân, con em người nghèo. Mối quan tâm đó hoàn toàn chính đáng. Làm thế nào để dung hòa được quyền lợi của cả hai bên? “Nâng học phí nhưng có học bổng. Có học bổng cho sinh viên xuất sắc và có học bổng cho cả sinh viên không xuất sắc nhưng nghèo” – Phó thủ tướng nói.

Điều vướng mắc thứ hai mà Phó thủ tướng Vũ Đức Đam nhắc đến là liên quan đến quản lý của Bộ GD&ĐT. “Bộ gỡ nhiều nhưng vẫn phải tiếp tục. Còn những quy định nào thực sự không cần thiết cho nền giáo dục tiên tiến thì bỏ, xem các nước làm thế nào thì mình cần học tập” – Phó thủ tướng đề nghị.

Thứ ba là mô hình quản trị ĐH khác trước và sau tự chủ thế nào? Theo Phó Thủ tướng, từ nhiều năm nay các trường ĐH có Hội đồng trường. Tăng quyền tự chủ của trường ĐH, giảm và bỏ sự can thiệp của cơ quan quản lý hành chính thì phải bỏ mô hình quản trị một thủ trưởng sang mô hình quản trị cá nhân kết hợp tập thể. Nhưng thời gian vừa qua các trường công vẫn chưa giải quyết được vấn đề này, quyền lực tập trung chủ yếu vào hiệu trưởng.

Cũng theo Phó thủ tướng, về ngân sách, thay vì nhà nước cấp tiền lương cho giảng viên như trước thì giờ lấy tiền đó cấp học bổng cho sinh viên thuộc các đối tượng ưu tiên. Hoặc cấp qua nghiên cứu khoa học. “Nói tóm lại nhà nước không cắt ngay tiền đầu tư cho Đại học. Chi thường xuyên giảm dần để tăng tính tự chủ, trách nhiệm của các trường. Nhưng tổng đầu tư không giảm. Các trường ĐH hãy bỏ trong đầu nỗi sợ tự chủ không còn ngân sách nhà nước. Tôi khẳng định: Tự chủ không có nghĩa là nhà nước không tiếp tục đầu tư. Vấn đề là thay đổi cách đầu tư mà thôi” – Phó thủ tướng chia sẻ.

Đề xuất bỏ cơ chế Bộ chủ quản

Tại hội nghị, GS. Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó chủ nhiệm UBVHGDTTN&NĐ của Quốc hội đề nghị phải sửa đổi Luật giáo dục ĐH phù hợp với quyền tự chủ ĐH. Từ năm 2005, quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục ĐH đã được Luật giáo dục ghi nhận. Tuy nhiên, ngay trong Luật này vẫn có những hạn chế quyền tự chủ của cơ sở như không được tự quyết định chương trình đào tạo; nhà giáo, viên chức của cơ sở giáo dục ĐH được trả lương theo quy định về ngạch bậc và lương, phụ cấp của Chính phủ....

Vấn đề bất cập khác mà GS. Nguyễn Minh Thuyết nhấn mạnh đó là phân tầng, xếp hạng ĐH. Cùng với việc phân tầng, xếp hạng, Luật Giáo dục ĐH cũng quy định mức độ tự chủ khác nhau giữa các cơ sở giáo dục ĐH và để ngỏ khả năng “thu hồi” quyền tự chủ. Ngoài ra GS. Thuyết còn đưa ra một số điểm không phù hợp trong Luật Giáo dục ĐH đối với tự chủ của các trường. Do đó, để thực hiện tự chủ ĐH, làm đòn bẩy nâng cao chất lượng đào tạo, GS. Nguyễn Minh Thuyết đề nghị cần sớm sửa đổi Luật Giáo dục ĐH và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan như bỏ quy định phân tầng ĐH, bỏ quy định cơ quan quản lý nhà nước xếp hạng cơ sở giáo dục ĐH, bãi bỏ cơ chế Bộ chủ quản, chấm dứt việc giao cho UBND cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước đối với cơ sở giáo dục ĐH.

Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Bùi Văn Ga cũng cho rằng trong công tác quản lý ngành, Bộ băn khoăn nhất một điều là về hội đồng trường. Tự chủ mà không có hội đồng trường thì không thể nào thực hiện được tự chủ. Hội đồng trường được thành lập mà không làm đúng vai trò chức năng, quyền lực tập trung ở một người là hiệu trưởng, thì không tự chủ được. Bởi như thế là không có dân chủ, không phát huy được sức mạnh tập thể.

Đọc tiếp »

Học nghề để cơ hội việc làm rộng mở

Đó là nhận định của ông Đồng Văn Ngọc, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội trước băn khoăn của nhiều bạn trẻ: Nên lựa chọn nên học ĐH, CĐ hay theo học ngành nghề yêu thích?

Học đại học bằng mọi giá

Thực tế quá trình nhiều năm tư vấn tuyển sinh, ông Ngọc cho biết: có nhiều bậc phụ huynh có tâm lý cho con thi đỗ đại học bằng mọi giá. Dù hàng năm có hàng chục nghìn cử nhân, kĩ sư ra trường không tìm được việc làm…có sinh viên có định hướng nghề nghiệp rất rõ ràng và họ đã lựa chọn học nghề để hiện thực hóa mong muốn nghề nghiệp nhưng gặp sự phản đối từ gia đình.

Đào tạo nghề dựa trên nền tảng đào tạo theo năng lực thực hiện trong đó tập trung vào kỹ năng thực hành và thái độ nghề nghiệp nên các trường đào tạo nghề đều phải đáp ứng tiêu chuẩn về nhà xưởng thực hành, giáo viên dạy thực hành cũng như giáo trình đào tạo phải phù hợp. Cụ thể, trong quá trình học nghề, sinh viên sẽ học những nội dung thực hành theo quy trình và công đoạn giống như tại doanh nghiệp sản xuất. Thời gian thực hành chiếm tới 70% thời lượng học tập trong toàn khóa học. Điều này sẽ giúp cho các bạn sinh viên có lợi thế đáp ứng các yêu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp.

Theo ông Ngọc, hiện các doanh nghiệp rất cần nhân lực trong các lĩnh vực: Điện công nghiệp, Cơ điện tử, Hàn, Công nghệ Ô tô, Cắt gọt kim loại… Hầu hết sinh viên trong những lĩnh vực này đều được các doanh nghiệp tiếp nhận ngay sau khi ra trường. Điều đó cho thấy các doanh nghiệp rất cần nhân sự có tay nghề.

“Tập đoàn Denso Nhật Bản, một trong những tập đoàn lớn nhất thế giới trong lĩnh vực sản xuất linh kiện ô tô và có mặt tại Việt Nam. Hàng năm, họ tuyển dụng các ứng viên từ các trường để trở thành tuyển thủ Quốc gia tham dự kỳ thi tay nghề Thế giới nghề Điều khiển công nghiệp và nghề Phay CNC. Xin bổ sung thêm là Kỳ thi tay nghề thế giới là Kỳ thi lớn nhất trên toàn thế giới dành cho những lao động trẻ có kỹ năng nghề đỉnh cao tham gia thi đấu tại đẳng cấp quốc tế. Denso tuyển dụng các ứng viên từ các trường dạy nghề để tìm kiếm tài năng mà họ mong muốn. Họ không tuyển dụng từ các trường đại học bởi họ biết rằng tuyển thủ của họ cần phải là người có kỹ năng nghề ở trình độ cao mà chỉ có thể được đào tạo bởi các trường dạy nghề. Cuộc thi tay nghề thế giới năm 2017 sẽ diễn ra ở Abu Dabi, tuyển thủ Nguyễn Tất Toại, nghề Điều khiển công nghiệp cũng chính là sinh viên của Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội”, ông Ngọc nói.

Thừa giáo sư, tiến sỹ thiếu thợ cơ khí bậc 7

Ông Ngọc cho rằng: Có một nghịch lý đang diễn ra hàng ngày là rất nhiều cử nhân và kỹ sư chưa tìm được việc, trong khi đó doanh nghiệp thì vẫn không thể tuyển được nhân sự cho công ty. Lý do bởi doanh nghiệp mong muốn tìm nhân sự đáp ứng được các yêu cầu vị trí việc làm nhưng không nhiều bạn sinh viên mới ra trường đủ khả năng ứng tuyển. Hiện Việt Nam doanh nghiệp có thể dễ tuyển các tiến sỹ, thạc sỹ, cử nhân… còn tuyển được thợ cơ khí có tay nghề cao bậc 7 là rất khó. Bởi ở mình đang diễn ra cảnh thừa thầy, thiếu thợ…

Đây chính là sự lệch pha giữa nhu cầu doanh nghiệp và giáo dục đào tạo. Tuy rằng còn phụ thuộc vào vị trí tuyển dụng và đặc thù của doanh nghiệp. Những đất nước đang phát triển mạnh mẽ công nghiệp, sản xuất và chế tạo và ngày càng cần nhiều hơn nữa nguồn nhân lực có chất lượng và kỹ năng nghề cao. Vì thế, các trường đào tạo nghề đang đáp ứng xu hướng này tốt hơn bởi chất lượng đào tạo kỹ năng nghề ưu việt và chương trình đào tạo theo đúng tiêu chuẩn công nghiệp mà doanh nghiệp mong muốn.

“Đây là lý do mà các doanh nghiệp hiện nay có xu hướng liên kết chặt chẽ với các trường đào tạo nghề và tuyển dụng sinh viên khi còn đang học. Họ còn tuyển dụng cả lớp và khóa học và hỗ trợ sinh viên những suất học bổng khuyến khích. Như Công ty Ô tô Trường Hải đã nhận toàn bộ sinh viên học nghề Công nghệ Ô tô khóa 7 của Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội ra trường và làm việc. Theo đó, chúng tôi đảm bảo 100% sinh viên học các nghề trọng điểm sẽ có việc làm với mức lương khởi điểm 5 triệu/tháng. 100% sinh viên thuộc các ngành nghề khác sẽ được giới thiệu việc làm đến các doanh nghiệp có nhu cầu”, ông Ngọc nói.

Học nghề để cơ hội việc làm rộng mở - ảnh 1
Hiện Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội không chỉ chú trọng đào tạo mà còn thiết lập một mạng lưới quan hệ doanh nghiệp rộng rãi. Các doanh nghiệp giúp trường cập nhật tiêu chuẩn nghề nghiệp, đổi mới chương trình đào tạo, tuyển dụng những sinh viên đáp ứng tiêu chuẩn làm việc cho doanh nghiệp. Nhờ sự gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp, trường ký cam kết với sinh viên ngay khi nhập học về việc đảm bảo việc làm và giới thiệu việc làm sau khi tốt nghiệp. Ngoài ra, sinh viên học tập tại trường sẽ có cơ hội làm việc tại Nhật Bản hoặc học lên trình độ cao hơn theo chương trình hợp tác giữa nhà trường và Hàn Quốc.
Các doanh nghiệp thường thiết lập các mối quan hệ chặt chẽ với Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội và đồng hành trong quá trình đào tạo. Hai bên có thỏa thuận về đảm bảo chất lượng đào tạo theo yêu cầu doanh nghiệp song song với việc doanh nghiệp giúp nhà trường cập nhật thường xuyên tiêu chuẩn nghề nghiệp, cập nhật công nghệ và cả xu hướng của nghề trong tương lai. Trường điều chỉnh và bổ sung chương trình đào tạo hàng năm để nâng cao chất lượng đào tạo theo hướng đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp. Trường cũng mời các doanh nghiệp tham gia đánh giá sinh viên trong các kỳ thi tốt nghiệp nhằm đảm bảo sinh viên đáp ứng được các tiêu chuẩn của doanh nghiệp.

Theo ông Ngọc, trường thường xuyên nhận được đơn đặt hàng của các doanh nghiệp để tuyển dụng nguồn nhân lực cho họ. Hàng năm cung ứng nhân lực cho khoảng hơn 50 doanh nghiệp gồm các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp tư nhân hoặc doanh nghiệp nhà nước… Các ngành nghề được tuyển dụng nhiều gồm: Hàn, Cắt gọt Kim loại, Công nghệ Ô tô, Điện công nghiệp và Cơ điện tử. Ngoài ra, theo xu hướng phát triển công nghệ nhà thông minh hiện nay, trường cũng đào tạo công nghệ nhà thông minh theo tiêu chuẩn và cấp chứng chỉ toàn cầu để cung ứng nhân lực cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Dự báo nghề này sẽ phát triển mạnh mẽ trong những năm tới do nhu cầu tự động hóa hệ thống điện dân dụng đang là xu hướng toàn cầu.

Tại Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội, có chương trình hợp tác để sinh viên tham gia chương trình “thực tập sinh kỹ thuật tại Nhật Bản”. Các sinh viên học nghề Hàn, Cắt gọt kim loại, Công nghệ Ô tô và Điện sẽ có cơ hội làm việc và nâng cao kỹ năng tại Nhật Bản trong vòng 3 năm. Đã có nhiều sinh viên nhà trường hiện đang làm việc tại Nhật Bản. Ngoài ra, các bạn sinh viên tốt nghiệp cũng có cơ hội học tập tiếp lên trình độ Đại học tại Hàn Quốc theo chương trình liên kết giữa nhà trường và các trường đại học của Hàn Quốc.

Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Hà Nội là 1 trong 45 trường đào tạo nghề chất lượng cao theo Quyết định 761 của Thủ tướng Chính phủ. Đào tạo theo các quy trình và tiêu chuẩn được kiểm định chặt chẽ. Năm 2016, nhà trường đào tạo 22 ngành nghề trong đó có 5 nghề trọng điểm đào tạo ở cấp độ ASEAN và Quốc gia là: Điện công nghiệp, Cơ điện tử, Công nghệ Ô tô, Hàn, Cắt gọt kim loại. Ngoài ra, trường cũng là đơn vị đào tạo sinh viên Việt Nam tham gia Kỳ thi tay nghề ASEAN và Kỳ thi tay nghề thế giới nghề Lắp đặt điện.


Đọc tiếp »

Mức học phí bình quân của các trường là 13 triệu đồng/sinh viên

TS Nguyễn Trường Giang, Vụ Tài chính hành chính sự nghiệp (Bộ Tài chính) đánh giá, nghị quyết số 77 của Chính phủ về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với 12 cơ sở giáo dục đại học công lập giại đoạn 2014-2017 đã có những thành công bước đầu khi thực hiện.

Theo TS Giang, mức học phí nhà nước quy định chưa đảm bảo bù đắp đủ chi phí hoạt động cần thiết của cơ sở đại học công lập. Mặt khác, cơ chế học phí và phân bổ ngân sách nhà nước làm giảm khản năng huy động các nguồn lực từ xã hội cho phát triển giáo dục đại học, phân tán và bình quân hóa việc hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho các đối tượng người học có mức thu nhập cao, thấp khác nhau.

Do vậy, TS Giang cho rằng, việc đổi mới cơ chế họat động, nâng cao quyền tự chủ của các cơ sở đại học công lập gắn với với tự chủ tài chính theo nghị định 77 của Chính phủ sẽ tăng nguồn tài chính, bù đắp đủ chi phí đào tạo, giảm bao cấp từ ngân sách nhà nước.

Căn cứ Quyết định phê duyện Đề án thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động của Thủ tướng Chính phủ, các trường đã ban hành quyết định mức học phí cụ thể đối với từng ngành, nghề, đảm bảo chương trình đào tạo theo nhu cầu người học và chất lượng đào tạo, đảm bảo mức học phí bình quân (của chương trình đại trà) tối đa bằng mức trần học phí đã được Chính phủ phê duyệt.

Theo đó, mức học phí bình quân của các trường trong năm 2015 là 13 triệu đồng/sinh viên, trong đó mức học phí cao nhất là trường ĐH Công nghiệp thực phẩm TP.HCM là 14,5 triệu đồng/ tháng và mức thu học phí thấp nhất là trường ĐH Hà Nội là 7,8 triệu đồng/tháng.

Tự chủ không có nghĩa là các trường được tùy tiện tăng học phí

TS Nguyễn Trường Giang, Vụ Tài chính hành chính sự nghiệp (Bộ Tài chính) cho rằng, ở đây cần lưu ý là việc cho phép các trường được tự quyết định mức thu học phí không có nghĩa là các trường có thể tùy tiện tăng học phí không có giới hạn.

“Việc tăng học phí phải gắn liền với việc bù đắp chi phí đào tạo hợp lý, tăng chất lượng đào tạo và phải công khai, minh bạch cơ chế thu, sử dụng học phí. Chấp nhận cạnh tranh lành mạnh giữa các trường theo hướng nâng cao chất lượng với mức học phí hợp lý”- TS Giang cho biết them.

Năm 2015 là năm đầu tiên các trường thực hiện phương án thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động, trong đó đối với sinh viên tuyển khóa học mới được áp dụng mức học phí tính đủ chi phí đào tạo cao gấp khoảng 2 lần so với mức học phí của các cơ sở đại học chưa thực hiện đề án thí điểm.

Đây là áp lực rất lớn đối với các trường trước thời điểm tuyển sinh, e ngại rằng đối với mức học phí cao so với mặt bằng sẽ không thu hút đủ số sinh viên cần thiết nhập học. Tuy vậy, thực tế cho thấy trong năm 2015 các trường đã thực hiện tuyển sinh đủ chỉ tiêu đã được Bộ GD&ĐT thông báo và điểm xét tuyển đầu vào các trường này vẫn thuộc nhóm trường có điểm cao trong các trường đại học.

“Điều này cho thấy, việc tính đủ chi phí đào tạo trong học phí, nâng cao mức học phí so hiện hành không phải là nhân tố quyết định đến sự lựa chọn của người học mà chat lượng giáo dục đào tạo do cơ sở đào tạo cung cấp mới giữ vai trò quyết định”- TS Giang nhận định.

Đọc tiếp »

Đà Nẵng sẽ “đấu giá” nhân tài?

Chị Phan Thị Thu Trang - học viên Đề án 922 phát biểu tại hội thảo. Ảnh: N.TChị Phan Thị Thu Trang - học viên Đề án 922 phát biểu tại hội thảo. Ảnh: N.T

Hội thảo có tên đầy đủ là “Đánh giá hiệu quả chương trình thu hút và đề án đào tạo nguồn nhân lực; định hướng công tác thu hút, đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ”. Theo báo cáo, đến nay, Đà Nẵng đã bố trí và sử dụng 1.269 nhân lực theo diện được thu hút và có 639 lượt học viên được cử đi học theo đề án Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao (Đề án 922) với 610 người tham gia. Trong số 610 người tham gia đề án có 433 người đã tốt nghiệp, 85 người đang học và 92 người vi phạm hợp đồng và xin ra khỏi đề án.

Ông Nguyễn Quanh Thanh, Giám đốc Sở TT&TT Đà Nẵng, cho rằng, sau khi đào tạo, các học viên cần có thời gian rèn luyện để nâng cao năng lực; thành phố ràng buộc thời gian cống hiến sau khi đào tạo nhưng nên chọn thời điểm phù hợp. Không nên bắt buộc học viên phải về nước làm ngay mà nên tạo điều kiện cho họ rèn luyện ở nước ngoài 3-5 năm. Khi đã có kinh nghiệm, học tập thực tế, học viên về nước làm việc sẽ hiệu quả hơn nhiều.

Ông Thanh cũng đề nghị việc sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao không nên gò bó trong khu vực nhà nước, nên có hình thức chuyển nhượng cho khu vực tư nhân có nhu cầu về nhân lực chất lượng cao. Việc chuyển nhượng này xem như cuộc “đấu giá”, giúp thành phố có thêm nguồn lực để tiếp tục phục vụ việc đào tạo và góp phần sử dụng nhân lực hiệu quả, đúng chuyên môn hơn.

Trong khi đó, đại diện Trung tâm Xúc tiến đầu tư cho rằng, việc đào tạo nên nhắm vào các đối tượng đã đi làm tại các cơ quan đơn vị cần nâng cao trình độ. Riêng với các học viên đã được đào tạo, cần khai thác tư duy sáng tạo, phản biện và xây dựng môi trường phản biện để tạo động lực cho họ. Ông Đặng Việt Dũng, Phó chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng, nói rằng, hiện nay đào tạo nhân lực cho khu vực công là chủ yếu; việc chuyển nhượng lao động sau khi đào tạo là phương án gợi mở, cần nghiên cứu để có sự kết hợp hài hòa giữa khu vực công và tư.

Nguyên nhân dứt áo ra đi

Một trong những bất cập trong sử dụng nhân tài hiện nay là việc họ chưa được coi trọng dẫn đến tình trạng lần lượt dứt áo ra đi. Ngoài ra, có tình trạng người đào tạo có chính kiến nhưng lãnh đạo thường không muốn nghe theo, hoặc lãnh đạo không theo kịp trình độ. Cùng với đó là việc thiếu thiết bị, phương tiện để nhân tài ứng dụng thực tiễn.

Chị Phan Thị Thu Trang, một trong những học viên Đề án 922, được đào tạo tại Anh chuyên ngành công nghệ sinh học phân tử (2010 - 2014), hiện được bố trí công tác tại Trung tâm Công nghệ sinh học thành phố, nói rằng, ngoài khó khăn về điều kiện kinh tế, học viên về nước đối diện việc thiếu máy móc, thiết bị. “Do đó, những kiến thức em học ở nước ngoài không thể đưa vào ứng dụng trong thực tế nghiên cứu tại Trung tâm. Cơ hội tiếp xúc với các chuyên gia đầu ngành cũng như môi trường làm việc hiện đại rất hạn chế”, chị Trang nói.

Ông Bùi Văn Tiếng, nguyên Trưởng ban Tổ chức Thành ủy, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Đà Nẵng, nói rằng, có trường hợp đi học về nước khi được bố trí công việc thì bị chê bai với lý do không viết được văn bản đúng quy chuẩn, vô tình tạo áp lực và tâm lý xấu cho họ.

Nhưng thực tế họ đi đào tạo là để phục vụ những chuyên ngành, phần việc cao hơn, lỗi này do việc bố trí công việc. Họ có tư duy phản biện nhưng không có môi trường phản biện, nói không khéo lại bị “chiếu tướng”. “Việc nhân tài ra đi hiện nay chủ yếu là do chúng ta ứng xử không phù hợp, lúc họ ở xa thì ta trải thảm đỏ, lúc về thì đối đãi không ra gì”, ông Tiếng nói.

Ông Huỳnh Văn Hoa, nguyên Giám đốc Sở GD&ĐT thành phố Đà Nẵng, cho rằng, nhiều nhân tài được phân công công việc chuyên môn chưa phù hợp, dẫn đến tâm lý hụt hẫng. Trong khi đó, thành phố chưa chủ động đối thoại với các học viên. Sau khi được đào tạo rồi về nước, các học viên không có thủ lĩnh kết nối để cùng nhau phát triển và đóng góp cho thành phố. Ông Hoa ví von, nhân tài của Đà Nẵng những năm qua như những “củ khoai lang rời rạc”.

Đọc tiếp »